Cơ hội để Việt Nam gia tăng xuất khẩu sang Trung Quốc (14-05-2025)

Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) dự báo nhập khẩu thủy sản của Trung Quốc sẽ tiếp tục tăng. Quốc gia này có xu hướng tiêu thụ nhiều hơn các sản phẩm thủy sản có mức giá trung bình như cá tra, tôm cỡ vừa và nhỏ. Đây có thể là cơ hội tốt để Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu thủy sản đến thị trường rộng lớn này.
Cơ hội để Việt Nam gia tăng xuất khẩu sang Trung Quốc
Ảnh minh hoạ

Thị trường thế giới

Năm 2024, sản lượng cá rô phi thế giới đạt khoảng 7 triệu tấn. Trong đó, châu Á là trung tâm sản xuất cá rô phi khi chiếm tỷ trọng tới hơn 67%, đạt hơn 4,7 triệu tấn; châu Phi chiếm 18% với hơn 1,2 triệu tấn; châu Mỹ chiếm 11%, với gần 800 nghìn tấn và các khu vực khác chiếm gần 4% với gần 300 nghìn tấn.

Trung Quốc vẫn là nơi sản xuất cá rô phi lớn nhất toàn cầu. Tuy nhiên, tốc độ phát triển của In-đô-nê-xi-a được cho là ngày càng mạnh mẽ, thậm chí được kỳ vọng là đối thủ lớn nhất của Trung Quốc trong cuộc đua thị phần cá rô phi. Tiếp đến là Ai Cập, với sức sản xuất trong những năm gần đây đang duy trì mức ổn định và là một trong 3 quốc gia sản xuất cá rô phi lớn nhất thế giới.

Hiện nay, Hoa Kỳ là thị trường tiêu thụ cá rô phi lớn nhất thế giới. Người tiêu dùng tại Hoa Kỳ thường ưa chuộng các sản phẩm phile đông lạnh giá thấp. Trung Quốc, In-đônê-xi-a, Bra-xin là nguồn cung cá rô phi chủ yếu cho thị trường Hoa Kỳ.

EU là thị trường tiêu thụ cá rô phi nhiều thứ 2 thế giới. Để cá rô phi được nhập khẩu vào EU, bắt buộc các nhà cung cấp phải đáp ứng các tiêu chuẩn về chứng nhận ASC, Global GAP... In-đô-nê-xi-a và Việt Nam là 2 nhà cung cấp cá rô phi chính cho EU.

Ngoài ra, Trung Đông, Hàn Quốc, Nhật Bản cũng là các điểm đến quan trọng của cá rô phi, với phân khúc đa dạng hơn, bên cạnh phile rô phi đông lạnh.

Trung Quốc

Lần đầu tiên Trung Quốc nghiên cứu đánh giá dấu chân carbon đối với mô hình nuôi tôm thẻ chân trắng trong hệ thống tuần hoàn khép kín. Cụ thể, quốc gia sản xuất thủy sản lớn nhất thế giới này lần đầu tiên nghiên cứu đánh giá dấu chân carbon (carbon footprint) đối với mô hình nuôi tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus vannamei) trong hệ thống tuần hoàn khép kín (RAS). Kết quả cho thấy hệ thống này có tiềm năng giảm phát thải nếu sử dụng năng lượng tái tạo và tối ưu hóa hiệu suất nuôi.

Nghiên cứu được thực hiện trên 4 cơ sở nuôi tại tỉnh Quảng Đông, sử dụng phương pháp đánh giá vòng đời (LCA) từ đầu vào đến khi tôm được thu hoạch. Dấu chân carbon được ghi nhận dao động từ 13,8 đến 14,9 tấn CO2 tương đương trên mỗi 1.000 kg tôm thương phẩm. Trong đó, điện năng chiếm tỷ trọng lớn nhất (hơn 50%), tiếp theo là phát thải sinh học từ hô hấp của tôm, thức ăn và vật liệu xây dựng. Đáng chú ý, hệ thống sử dụng năng lượng mặt trời giảm phát thải tới 92% so với khi dùng điện sản xuất từ than đá.

Theo các nhà nghiên cứu, phát thải sinh học có thể là chỉ số đánh giá hiệu quả sinh trưởng và quản lý nuôi trồng. Bên cạnh đó, cơ sở hạ tầng cũng đóng vai trò đáng kể trong tổng phát thải, nhất là ở những trang trại quy mô lớn. Kết quả nghiên cứu này đã góp phần làm rõ những thách thức và cơ hội để ngành tôm Trung Quốc ứng dụng công nghệ cao chuyển hướng sang sản xuất ít phát thải, thân thiện với môi trường hơn trong tương lai.

Ê-cu-a-đo

Năm 2025, ngành tôm Ê-cu-a-đo tiếp tục tăng cường đầu tư vào sản xuất các sản phẩm chế biến như tôm nấu chín, tôm lột vỏ và tôm giá trị gia tăng khác.

Trước áp lực giá từ thị trường Trung Quốc, các nhà chế biến tôm Ê-cu-a-đo đang chuyển hướng sang các thị trường cao cấp như Liên minh châu Âu (EU) và Hoa Kỳ, trong đó tập trung vào sản phẩm giá trị gia tăng nhằm nâng cao lợi nhuận và giảm phụ thuộc vào xuất khẩu tôm nguyên con. Đây là chiến lược được thúc đẩy sau khi giá mua từ Trung Quốc – thị trường xuất khẩu chính của Ê-cu-a-đo - đã giảm xuống mức gần sát với giá nguyên liệu thô, khiến biên lợi nhuận bị thu hẹp đáng kể.

Xu hướng dịch chuyển này đã bắt đầu rõ nét từ năm 2024, xuất khẩu tôm đông lạnh của Ê-cu-a-đo sang Trung Quốc giảm 8% về khối lượng, chỉ còn 651.498 tấn và giảm 16% về trị giá xuống còn 3,23 tỷ USD. Trong khi đó, xuất khẩu sang Hoa Kỳ tăng 5% về khối lượng (đạt 202.207 tấn) và tăng 7% về trị giá (lên 1,46 tỷ USD). Tương tự, xuất khẩu tới thị trường EU ghi nhận mức tăng trưởng 13% về khối lượng, đạt 198.142 tấn, trị giá giữ vững ở mức 1,27 tỷ USD.

Trong quý II/2025, các nhà chế biến tôm Ê-cu-a-đo kỳ vọng nhu cầu từ Trung Quốc sẽ phục hồi, khi các nhà nhập khẩu nước này có khả năng quay lại đặt hàng để bổ sung kho vào tháng 4 – 5.

Với vị thế là quốc gia xuất khẩu tôm lớn nhất thế giới, Ê-cu-a-đo đang tái cấu trúc chuỗi cung ứng để thích ứng với xu thế mới, thay vì chạy theo sản lượng, các doanh nghiệp bắt đầu chú trọng đến chất lượng, chế biến và đa dạng hóa thị trường – sẽ quyết định sự phát triển bền vững trong giai đoạn tiếp theo.

Nga

Năm 2025, Nga sẽ tăng cường xuất khẩu cá tuyết sang Bra-xin. Kế hoạch này nằm trong chiến lược đa dạng hóa thị trường. Theo dữ liệu của Hiệp hội thủy sản Nga (VARPE), cá tuyết chiếm khoảng 10% tổng lượng thủy sản nhập khẩu của Bra-xin. Trong năm 2024, nước này đã nhập 4.550 tấn cá tuyết đông lạnh, 6.700 tấn cá tuyết muối, hun khói và khô. Theo Chủ tịch Hiệp hội các nhà xuất khẩu thủy sản Nga, Nga đã bán một lượng nhỏ cá minh thái sang Bra-xin, nhưng vẫn chưa chính thức xuất khẩu cá tuyết sang thị trường này. Theo VARPE dự báo, lượng cá tuyết Nga xuất khẩu sang Bra-xin năm 2030 có thể đạt khoảng 9.000 tấn.

Thị trường trong nước

Trong những ngày đầu tháng 05/2025, giá cá tra nguyên liệu tại Đồng bằng sông Cửu Long giảm so với những ngày cuối tháng 04/2025 và dao động ở mức 30.000 – 32.000 đồng/kg. Giá cá tra nguyên liệu tại An Giang cỡ 0,85 - 1,1 kg/con dao động từ 31.000 – 32.000 đồng/kg; đối với cỡ cá tra > 1,2 kg/con dao động từ 29.000 – 30.000 đồng/kg

Giá nguyên liệu tôm tại một số tỉnh biến động như sau: Tại Phú Yên, trong những ngày đầu tháng 05/2025 giá nguyên liệu tôm sú đều ổn định so với những ngày đầu tháng 04/2025, cụ thể: Đối với cỡ 50 con/kg ở mức 220.000 đồng/kg; cỡ 40 con/kg ở mức 250.000 đồng/kg; cỡ 30 con/kg ở mức 300.000 đồng/kg. Trái lại, giá nguyên liệu tôm thẻ cỡ 100 con/kg tăng 7.000 đồng/kg, đạt mức 122.000 đồng/kg.

Tại Quảng Bình, trong những ngày đầu tháng 05/2025 giá nguyên liệu tôm đất, tôm bộp, tôm sú, tôm hùm, tôm thẻ ổn định so với những ngày đầu tháng 04/2025. Cụ thể: Tôm đất cỡ 40 - 50 con/kg đạt 420.000 đồng/kg; tôm bộp cỡ 45 - 50 con/kg đạt 480.000 đồng/kg; tôm sú cỡ 20 - 30 con/ kg đạt 480.000 đồng/kg; tôm hùm cỡ 3 - 5 con/kg đạt 1.250.000 đồng/kg, tôm thẻ cỡ 30 - 40 con/kg đạt 300.000 đồng/kg.

Tại Cà Mau, trong những ngày đầu tháng 05/2025 giá nguyên liệu tôm sú cỡ và tôm thẻ đều ổn định so với những ngày đầu tháng 04/2025. Cụ thể: tôm sú cỡ 20 con/kg đạt 290.000 đồng/kg; tôm sú cỡ 30 con/kg đạt 190.000 đồng/kg; tôm thẻ cỡ 20 con/kg đạt 270.000 đồng/kg.

Giá nguyên liệu mực, cá thu, cá ngừ tại Đà Nẵng: Trong những ngày đầu tháng 05/2025, giá nguyên liệu thủy sản biến động trái chiều so với tháng 04/2025, cụ thể: Giá nguyên liệu mực ống Loại 1 (>20cm) đạt mức 200.000 đồng/kg, giảm 20.000 đồng/kg; giá mực ống loại 2 (<20cm) ở mức 200.000 đồng/kg, tăng 20.000 đồng/kg. Giá nguyên liệu cá thu Loại 1 đạt 190.000 đồng/kg, giảm 10.000 đồng/kg; Loại 2 đạt 150.000 đồng/kg giảm 20.000 đồng/kg. Giá nguyên liệu cá ngừ Loại 1 đạt 60.000 đồng/kg; cá ngừ Loại 2 đạt 40.000 đồng/ kg, đều tăng 10.000 đồng/kg.

Xuất khẩu thủy sản của Việt Nam

Theo số liệu của Cục Hải quan, xuất khẩu thủy sản của Việt Nam quý I/2025 đạt 515,61 nghìn tấn, trị giá 2,31 tỷ USD, tăng 8,7% về lượng và tăng 19,2% về trị giá so với quý I/2024.

Trong quý I/2025, xuất khẩu nhiều nhóm hàng thủy sản của Việt Nam đạt được kết quả tăng trưởng cả về lượng và trị giá so với cùng kỳ năm trước: Tôm các loại tăng 9,7% về lượng và tăng 33,1% về trị giá; Cá tra, basa tăng 3% về lượng và tăng 6,8% về trị giá; Cá ngừ các loại tăng 2,6% về lượng và tăng 1,2% về trị giá; Cá khô tăng 28,1% về lượng và tăng 14,5% về trị giá; Mực các loại tăng 3,1% về lượng và tăng 10,1% về trị giá; Chả cá tăng 9,3% về lượng và tăng 8,3% về trị giá; Cua các loại tăng 159,4% về lượng và tăng 74,3% về trị giá; Nghêu các loại tăng 26,6% về lượng và tăng 27,6% về trị giá; Ốc các loại tăng 359,9% về lượng và tăng 552,9% về trị giá; Sò các loại tăng 808,2% về lượng và tăng 290,7% về trị giá…

Xuất khẩu thủy sản của Việt Nam có thể sẽ tăng chậm lại vì biến động lớn từ các thị trường, với các yếu tố như thay đổi thói quen tiêu dùng, biến động cung cầu, do tác động bởi chính sách thuế mới của Hoa Kỳ làm ảnh hưởng tới xuất khẩu thủy sản của Việt Nam trong thời gian tới.

Theo thống kê của Cục Hải quan Việt Nam, tháng 04/2025, xuất khẩu thủy sản của Việt Nam đạt 900,87 triệu USD, tăng 16,3% so với tháng 04/2024. Lũy kế 4 tháng đầu năm 2025, xuất khẩu thủy sản của Việt Nam đạt 3,21 tỷ USD, tăng 18,3% so với cùng kỳ năm trước.

Trong tháng 4 và 4 tháng đầu năm 2025, xuất khẩu thủy sản của Việt Nam tiếp tục tăng trưởng so với cùng kỳ năm 2024 tới nhiều thị trường lớn như: Trung Quốc, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Úc, Thái Lan, Anh.

Tháng 4/2024, xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang Trung Quốc đạt 176,5 triệu USD, tăng 35,8% so với tháng 4/2024. Tính chung 4 tháng đầu năm 2025, xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang Trung Quốc đạt 640,7 triệu USD, tăng 62,5% so với cùng kỳ năm 2024. Tỷ trọng xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc tăng từ 14,62% trong 4 tháng đầu năm 2024 lên 19,95% trong 4 tháng đầu năm 2025.

Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu thuỷ sản lớn thứ hai của Việt Nam trong tháng 4/2025, đạt 133,1 triệu USD, tăng 11,3% so với tháng 4/2024. Tính chung 4 tháng đầu năm 2025, xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang Hoa Kỳ đạt 492,04 triệu USD, tăng 14,5% so với cùng kỳ năm 2024. Tỷ trọng xuất khẩu sang Hoa Kỳ giảm xuống còn 16,57% trong 4 tháng đầu năm 2025, từ mức 17,12% trong 4 tháng đầu năm 2024.

Các thị trường xuất khẩu thuỷ sản lớn tiếp theo của Việt Nam trong tháng 4 và 4 tháng đầu năm 2025 gồm: Nhật Bản, Hàn Quốc, Úc, Thái Lan…

Dung lượng nhập khẩu của thị trường Trung Quốc

Theo số liệu thống kê của Cơ quan Hải quan Trung Quốc, 3 tháng đầu năm 2025, thị trường Trung Quốc nhập khẩu thủy sản với trị giá 4,69 tỷ USD, tăng 6,8% so với cùng kỳ năm 2024. Trong đó, Ê-cu-a-đo, Nga, Việt Nam, Ca-na-đa, Na Uy, Hoa Kỳ, In-đô-nê-xi-a, Úc, Ấn Độ là những thị trường cung cấp thủy sản lớn cho Trung Quốc.

3 tháng đầu năm 2025, Trung Quốc tăng nhập khẩu thủy sản từ các thị trường như: Ê-cu-a-đo, Nga, Na Uy, Úc.

Trung Quốc cũng tăng nhập khẩu thủy sản từ Việt Nam với mức tăng trưởng tới 3 con số, tăng 125,3% so với cùng kỳ năm 2024. Thị phần của Việt Nam trong tổng nhập khẩu thủy sản của Trung Quốc tăng từ 4,10% trong 3 tháng đầu năm 2024 lên 8,66% trong 3 tháng đầu năm 2025.

Dự báo nhập khẩu thủy sản của Trung Quốc thời gian tới tiếp tục tăng, trong đó xu hướng tăng cao tiêu dùng những sản phẩm thủy sản có mức giá trung bình như cá tra, tôm cỡ trung bình và nhỏ sẽ là cơ hội để thủy sản Việt Nam tăng thị phần tại thị trường này hơn nữa.

Dung lượng nhập khẩu của thị trường Hoa Kỳ

Trong 2 tháng đầu năm 2025, Việt Nam là thị trường cung cấp thủy sản lớn thứ 8 cho Hoa Kỳ (tính theo trị giá), chiếm 8,53% về lượng và chiếm 6,25% về trị giá trong tổng nhập khẩu thủy sản vào thị trường này, với lượng đạt 46,64 nghìn tấn, trị giá 271,54 triệu USD, giảm 13,9% về lượng, nhưng tăng 16,6% về trị giá so với cùng kỳ năm trước.

Thời gian tới, thủy sản Việt Nam có thể sẽ có cơ hội tăng thị phần tại Hoa Kỳ hơn khi thủy sản Trung Quốc giảm tính cạnh tranh vì bị áp thuế cao. Tuy nhiên, thủy sản Việt Nam cũng phải đối mặt với những thách thức về chất lượng. Dự báo, nhu cầu nhập khẩu thủy sản của Hoa Kỳ trong những tháng tiếp theo có thể sẽ giảm nhẹ vì giá tăng do ảnh hưởng bởi chính sách thuế đối ứng của nước này.

Ngọc Thúy - FICen

Ý kiến bạn đọc

Tin khác